Kinh tế nông nghiệp Sumer

Nông nghiệp và săn bắt

Người Sumer đã áp dụng đời sống nông nghiệp có lẽ từ khoảng năm 5000 - 4500 TCN. Trong vùng có dấu tích của một số kỹ thuật nông nghiệp cơ bản, bao gồm thủy lợi có tổ chức, trồng cấy tập trung trên quy mô lớn, chuyên canh có sử dụng cày và sử dụng nhân công chuyên nghiệp có quan lại quản lí. Nhu cầu trong công việc quản lý đền cùng với tổ chức hoạt động nông nghiệp đã dẫn tới sự phát triển của chữ viết (khoảng 3500 TCN).

Khảm trên lăng mộ hoàng gia Ur, được làm từ lưu ly và vỏ sò, thể hiện thời thịnh trị

Trong giai đoạn Uruk sớm, những chữ tượng hình nguyên thủy cho thấy cừu, , gia súc, và lợn đã được thuần hóa. Họ dùng bò đực làm súc vật thực hiện những công việc nặng và lừa hay súc vật họ ngựa làm phương tiện vận chuyển chính và "áo quần cũng như chăn len được làm từ len hay lông động vật... Bên cạnh nhà là một khu vườn có rào trồng cây và các loại thực vật khác; lúa mì và có lẽ các loại ngũ cốc khác được gieo trên các cánh đồng, và shaduf (cần múc nước) đã được dùng cho mục đích tưới tiêu. Các loại cây cũng được trồng trong chậu hay trong bình."[47]

Người Sumer là một trong những xã hội đầu tiên uống bia. Nguồn ngũ cốc dồi dào là thành phần chính làm nên những loại bia ban đầu. Họ nấu nhiều loại bia từ lúa mì, lúa mạch và các loại ngũ cốc hỗn hợp. Nấu bia là một công việc quan trọng đối với người Sumer. Trong Sử thi Gilgamesh, Enkidu được làm quen với thức ăn và bia từ những người dân của Gilgamesh: "Uống bia, vì đó là phong tục của vùng đất này... Anh ta uống bảy cốc bia! Rồi trở nên sôi nổi và ca hát vui vẻ!"[48]

Một bản kê về việc phân chia lúa mạch được cấp hàng tháng cho những người trưởng thành và trẻ em được viết bằng chữ hình nêm trên bảng đất sét, viết vào năm thứ tư Triều Urukagina, k. 2350 TCN

Người Sumer thực hiện các kỹ thuật tưới tiêu tương tự như kỹ thuật được dùng tại Ai Cập.[49] Nhà nhân chủng học người Mỹ Robert McCormick Adams nói rằng sự phát triển thủy lợi đi liền với sự đô thị hóa,[50] và 89% dân số sống trong các thành phố.[51]

Họ trồng lúa mạch, đậu xanh, đậu lăng, lúa mì, chà là, hành, tỏi, rau diếp, tỏi tâymù tạc. Người Sumer đánh bắt nhiều loại cá và săn bắt linh dương.[52]

Nông nghiệp Sumer phụ thuộc nhiều vào thủy lợi. Thủy lợi được thực hiện bằng cách sử dụng shaduf, kênh, mương, sông đào, đập nước, và hồ chứa. Những trận lụt lớn thường xuyên của sông Tigris, và ở tần suất thấp hơn của sông Euphrates, khiến các con kênh cần được tu sửa thường xuyên để nạo vét phù sa, và thay thế các cột tiêu và kè đá. Chính quyền yêu cầu người dân có nghĩa vụ lao dịch trên các con kênh, mặc dù người giàu có thể trả tiền để được miễn.

Như được biết đến trong "Niên lịch Nông dân Sumer", sau mùa lụt và sau Xuân phân và Akitu (Lễ mừng năm mới), những người nông dân sẽ dẫn nước từ kênh để làm ngập ruộng rồi tháo nước. Sau đó họ dùng bò dẫm ruộng và diệt cỏ dại. Sau đó họ dùng cuốc chim để xới đất. Sau khi khô, họ cày, bừa, và cào đất ba lần, và làm tơi đất bằng cuốc chim, trước khi gieo hạt. Không may là độ bốc hơi nước cao khiến đất ngày càng bị mặn hóa. Tới giai đoạn Ur III, những người nông dân đã chuyển từ lúa mì sang lúa mạch, loại cây chịu mặn tốt hơn, làm cây trồng chính của mình.

Người Sumer thu hoạch vào mùa xuân với những tổ ba người gồm một người gặt, một người buộc lúa, và một người lượm.[53] Những người nông dân sau đó sẽ dùng máy đập do bò kéo để tách các hạt ngũ cốc khỏi thân lúa và sau đó dùng xe kéo để nghiền hạt. Rồi họ sàng sảy hỗn hợp hạt/trấu.

Kinh tế và thương mại

Những phát hiện về đá vỏ chai tại những vùng xa xôi ở Anatolialapis lazuli từ Badakhshan ở đông bắc Afghanistan, hạt cườm ở Dilmun (Bahrain hiện nay), và nhiều con dấu có ký tự Thung lũng sống Ấn cho thấy một mạng lưới thương mại cổ đại rất lớn tập trung quanh khu vực vịnh Ba Tư.

Sử thi Gilgamesh nhắc tới thương mại với những vùng đất xa xôi trao đổi những hàng hóa khan hiếm ở Lưỡng Hà như gỗ. Đặc biệt, cây tuyết tùng từ Liban rất được ưa chuộng. Việc tìm thấy nhựa thông trong mộ Hoàng hậu Puabi tại Ur cho thấy nó đã được mua về từ tận Mozambique.

Người Sumer sử dụng nô lệ, mặc dù không phải là một thành phần lớn của nền kinh tế. Nữ nô lệ làm những việc như dệt vải, ép dầu, xay xát, và mang vác.

Những người thợ làm đồ gốm Sumer trang trí các bình gốm bằng sơn dầu tuyết tùng. Họ dùng một chiếc khoan cần cung để tạo ra lửa nung đồ gốm. Thợ nề và thợ kim hoàn Sumer đã biết sử dụng thạch cao (canxít), ngà voi, sắt, vàng, bạc, carnelian, và lưu ly.[54]

Giao thương với thung lũng sông Ấn

Chuỗi hạt có hoa văn được khắc màu trắng từ Nghĩa địa Hoàng gia, có niên đại từ Vương triều Ur đầu tiên, được cho là đến từ Thung lũng sông Ấn. Bảo tàng Anh.[55]Các tuyến giao thương giữa Lưỡng Hà và Sông Ấn ngắn hơn đáng kể do mực nước biển thấp hơn trong thiên niên kỷ thứ 3 TCN.[56]

Bằng chứng cho việc nhập khẩu hàng hóa từ Thung lũng sông Ấn đến Ur có thể được tìm thấy từ khoảng 2350 TCN.[57] Nhiều vật dụng sử dụng vỏ sò là đặc trưng của bờ biển sông Ấn, đặc biệt là Trubinella Pyrum và Fasciolaria Trapezium, đã được tìm thấy trong các địa điểm khảo cổ của Lưỡng Hà có niên đại khoảng 2500-2000 TCN.[58] Hạt Carnelian từ sông Ấn đã được tìm thấy trong khu lăng mộ Sumer ở Ur, Nghĩa trang Hoàng gia Ur, có niên đại 2600-2450 TCN.[59] Cụ thể, các hạt carnelian được chạm khắc màu trắng có lẽ được nhập từ Thung lũng Indus và được chế tạo bằng kỹ thuật khắc axit phát triển tại Harappans.[60][61][62] Lapis lazuli được Ai Cập nhập khẩu với số lượng lớn và đã được sử dụng trong nhiều ngôi mộ thời Naqada II (khoảng năm 3200 TCN). Lapis lazuli có lẽ có nguồn gốc ở miền bắc Afghanistan, vì không có nguồn nào khác được biết, và phải được vận chuyển qua cao nguyên Iran đến Lưỡng Hà, và sau đó là Ai Cập.[63][64]

Một số con dấu sông Ấn với kí tự Harappa cũng đã được tìm thấy tại Lưỡng Hà, đặc biệt là ở Ur, BabylonKish.[65][66][67][68][69][70]

Gudea, người cai trị Đế chế Tân Sumer tại Lagash, được ghi chép là đã nhập khẩu "carnelian mờ" từ Meluhha, thường được cho là khu vực Thung lũng sông Ấn.[59] Nhiều bản khắc khác nhau cũng đề cập đến sự hiện diện của các thương nhân và phiên dịch viên Meluhha ở Lưỡng Hà.[59] Khoảng hai mươi con dấu đã được tìm thấy từ các khu vực Akkad và Ur III, có mối liên hệ với Harappa và thường sử dụng các biểu tượng hoặc chữ viết của Harappa.[59]

Nền văn minh Thung lũng sông Ấn chỉ phát triển rực rỡ từ năm 2400 đến 1800 TCN, nhưng tại thời điểm thực hiện những trao đổi này, nó là một thực thể lớn hơn nhiều so với nền văn minh Lưỡng Hà, có diện tích 1,2 triệu mét vuông với hàng ngàn khu định cư, so với đến một khu vực chỉ khoảng 65.000 mét vuông được sinh sống ở Lưỡng Hà, trong khi các thành phố lớn nhất có kích thước tương đương với khoảng 30-40.000 cư dân.[71]

Tiền và tín dụng

Các tổ chức lớn giữ tài khoản của họ bằng lúa mạchbạc, thường với một tỷ lệ cố định. Các nghĩa vụ, các khoản vay và giá cả nói chung thường được tính bằng các đơn vị này. Nhiều giao dịch liên quan đến nợ nần, ví dụ hàng hóa được đền thờ giao cho các thương nhân và bia được giao cho những "phụ nữ nấu bia".[72]

Tín dụng thương mại và cho vay tiêu dùng nông nghiệp là loại hình cho vay chính. Tín dụng thương mại thường được niêm yết bởi các đền thờ để tài trợ cho các cuộc thám hiểm thương mại và được yết giá bằng bạc. Lãi suất được đặt ở mức 1/60 một tháng (một shekel mỗi mina) từ khoảng trước năm 2000 TCN và vẫn ở mức đó trong khoảng hai nghìn năm.[72] Các khoản vay nông thôn thường phát sinh do các nghĩa vụ chưa thanh toán với một tổ chức (chẳng hạn như một ngôi đền), trong trường hợp này các khoản nợ được coi là cho vay đối với con nợ.[72] Chúng được định giá bằng lúa mạch hoặc các loại cây trồng khác và lãi suất thường cao hơn nhiều so với các khoản vay thương mại và có thể lên tới 1/3 đến 1/2 số tiền gốc của khoản vay.[72]

Theo định kỳ, các nhà cai trị đã ký các sắc lệnh "phiến đá sạch" hủy bỏ tất cả các khoản nợ nông thôn (không phải thương mại) và cho phép các bên liên quan trở về nhà của họ. Theo thông lệ, các nhà cai trị thường làm điều đó vào đầu năm đầu tiên của triều đại của họ, nhưng cũng có thể tại thời điểm xung đột quân sự hoặc mất mùa. Những sắc lệnh đầu tiên được biết đến được thực hiện bởi Enmetena và Urukagina của Lagash vào năm 2400–2350 TCN. Theo Hudson, mục đích của các sắc lệnh này là để ngăn chặn các khoản nợ gây ảnh hưởng đến lực lượng chiến đấu, điều này có thể xảy ra nếu nông dân bị mất đất sinh hoạt hoặc trở thành gia nô do không có khả năng trả nợ.[72]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sumer http://members.optusnet.com.au/~gtosiris/page11-4.... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/573176/S... http://books.google.com/?id=dWuQ70MtnIQC&pg=PA51&d... http://books.google.com/?id=i7_hcCxJd9AC&pg=PA147&... http://books.google.com/?id=tupSM5y9yEkC&pg=PA139&... http://books.google.com/?id=zmvNogJO2ZgC&pg=PA505&... http://books.google.com/books?id=BKRE5AjRM3AC&prin... http://books.google.com/books?id=lbmXsaTGNKUC&pg=P... http://books.google.com/books?id=pr8-i1iFnIQC&prin... http://ancientneareast.tripod.com/Sumer.html